Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười là lễ hội truyền thống gắn với di tích đền Ông Hoàng Mười, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Trong hệ thống Đạo Mẫu, Quan Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh của Vua cha, Ông giáng trần để giúp dân, phù đời, được giao trọng trách trấn thủ Nghệ An về mặt tâm linh, được đặc cách toàn quyền kiểm soát khâm sai ở xứ Nghệ. Tương truyền, Ngài là hoá thân của các vị Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Nguyễn Duy Lạc - là những nhân vật lịch sử gắn bó với Xứ Nghệ, có nhiều công trạng với nước, với dân, có thân thế gần giống như Quan Hoàng Mười.
Tại đền còn lưu truyền sự tích về Ngài như: quê ở làng Xuân Am, tổng Yên Đổ, phủ Hưng Nguyên (nay là xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An), là người văn võ toàn tài, có công dựng nền thịnh trị, ổn định cuộc sống cho nhân dân quanh vùng. Đặc biệt, Ngài luôn quan tâm, gần gũi, giúp đỡ những người dân lao động nghèo khó; là một vị tướng tài có công lớn trong cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn. Ngài bị thương nặng, phi ngựa về đến quê nhà thì mất, dân làng chưa kịp mai táng, mối đã đùn đất lên quanh thi hài thành một ngôi mộ. Triều đình và nhân dân thương tiếc lập đền thờ bên cạnh ngôi mộ để làm nơi tưởng niệm Ngài. Công lao của quan Hoàng Mười đã được các triều đại phong kiến ghi nhận, ban cho các thần hiệu “Khâm Sai Tiết Chế Nghệ An, Quảng Nam, Thuận Hóa Đẳng Xứ, Kiêm Thủy Bộ Chư Dinh, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Thái Úy, Vị Quốc Công”.
Đền Ông Hoàng Mười nằm ở địa phận làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Theo ghi chép, đền được xây dựng vào năm 1634, từ thời hậu Lê. Trải qua lịch sử, đền bị phá huỷ. Năm 1995 đền được xây dựng lại, giờ trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng, tâm linh nổi tiếng của tỉnh Nghệ An.(ảnh Vnexpres)
Lễ hội Đền Ông Hoàng Mười được hình thành và tồn tại với lịch sử của đền Ông Hoàng Mười từ thế kỷ thứ XVII, thời Lê Trung Hưng nhằm tưởng nhớ và tri ân công đức của Quan Hoàng Mười. Theo bản “Xuân Am thôn tục lệ” hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các triều đại Phong kiến đều ban sắc phong thần cho các vị thần được thờ phụng tại đây. Triều đình giao cho làng Xuân Am phải có trách nhiệm “tòng tiền phụng sự” các vị thần, được quy định nghiêm ngặt trong bản hương ước của làng. Ngoài các ngày lễ tết, ngày rằm hàng tháng phải cúng bái chu đáo, thì có lễ Tự điển (Tế điển) vào ngày 15 tháng Ba Âm lịch được tổ chức có quy mô lớn đầy đủ các nghi lễ: lễ rước, lễ yết cáo, lễ đại tế, được nhân dân trong làng Xuân Am duy trì thực hành đều đặn hàng năm, coi như ngày hội lớn của làng.
Từ năm 1995, sau khi ngôi đền được phục dựng lại, Lễ hội đền Ông Hoàng Mười có sự thay đổi, nhân dân làng Xuân Am đã tập trung tổ chức lễ hội chính vào dịp 10 tháng Mười Âm lịch (ngày hóa của quan Hoàng Mười, dịp tết cơm mới/tết Trùng thập/tết Hạ nguyên, ngày lễ của những người thực hành nghi lễ hầu đồng), người dân tin là ngày tròn trịa, viên mãn, mang lại nhiều điều tốt đẹp; ngày 15 tháng Ba chỉ thắp hương, dâng lễ.
Lễ hội diễn ra tại đền Ông Hoàng Mười, nhà thờ họ Nguyễn ở làng Xuân Am, nơi lưu giữ sắc phong. Các nghi lễ chính của hội gồm: Lễ khai quang/mộc dục (ngày 8 tháng Mười), Lễ rước sắc (ngày 9 tháng Mười), Lễ yết cáo, Lễ đại tế, Lễ tạ.
Lễ rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn về đền Hoàng Mười, diễn ra vào chiều ngày 9, do từ thời Phong kiến, sắc phong thần của đền được giao cho dòng họ Nguyễn trông coi, lưu giữ. Khi làng tổ chức hội thì rước sắc ra đền, xong hội lại rước về nhà thờ. Hiện nhà thờ họ Nguyễn lưu giữ 18 sắc phong gốc, trong đó 15 sắc phong còn nguyên bản. Trước năm 1975, khi chưa có đường lớn, lễ rước sắc di chuyển bằng thuyền trên sông Cồn Mộc. Ngày nay, đường thuận tiện nên đoàn rước đi bằng đường bộ. Ban lễ nghi và đội hình nghi lễ là những người trong gia đình không có tang, giữ mình thanh sạch. Đoàn rước gồm cộng đồng làng xã mang theo trống chiêng, cờ quạt, kiệu bành, kiệu long đình, lễ vật…, tập trung tại nhà thờ họ Nguyễn. Ông tộc trưởng họ Nguyễn làm lễ xin rước sắc về đền tổ chức lễ hội, trao sắc và lư hương cho Ban lễ nghi đặt lên kiệu long đình để rước về đền. Lễ rước trang trọng, linh thiêng, đầy âm thanh và màu sắc. Về đến đền, kiệu được hạ xuống sân đền, chủ tế rước hộp sắc vào làm lễ an vị tại Thượng điện.
Sáng ngày 10, dân làng làm lễ đại tế với lễ tuyên sắc và lễ tế. Hộp sắc trong Thượng điện được rước ra Hạ điện, chủ tế mở hộp sắc, lấy hai đạo sắc (1 đạo sắc thời Lê, 1 đạo sắc thời Nguyễn) ra và đọc nội dung. Tuyên sắc xong, sắc phong được để lại hộp và rước vào yên vị như cũ. Sau đó là lễ tế, dân làng và du khách dâng hương.
Buổi tối là lễ tạ quan Hoàng Mười, các vị thần linh đã phù hộ cho hội. Sau đó, sắc lại được rước về nhà thờ họ Nguyễn, cúng báo với thần thánh và tổ tiên lễ hội đã hoàn tất.
Nét đặc sắc của lễ hội đền Hoàng Mười là các hoạt động gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, đó là diễn xướng nghi lễ hầu đồng. Ông Hoàng Mười là vị linh thần ở hàng thứ 3 trong hệ thống thần linh của điện thần Tứ phủ, được coi là vị thánh chuyên ban lộc về công danh. Ông Hoàng Mười thường xuyên giáng đồng, ngự trong thời gian lâu, xuất hiện sau các giá Quan và giá Chầu. Nghi lễ hầu đồng thu hút khách thập phương về dự, mỗi năm đền đón khoảng 400 - 500 nhóm đến thực hành tín ngưỡng, chủ yếu từ các tỉnh phía Bắc và một số ở phía Nam. Từ tháng 8 đến tháng Mười Âm lịch, nghi lễ hầu đồng được thực hành thường xuyên tại đền, giúp con người giao tiếp, biểu đạt những ước muốn, khát vọng của mình với thần linh. Hầu đồng Quan Hoàng Mười tại Nghệ An có những nét đặc sắc khác biệt với các bài hát chầu văn ca ngợi công danh hiển hách của Quan Hoàng Mười, được cung văn tấu theo lối hát dân ca Nghệ Tĩnh, ngài xuất hiện với phong cách đặc trưng của người con xứ Nghệ, đại diện cho cốt cách, khí phách con người xứ Nghệ: oai hùng, xông pha trận mạc, hào hoa, phong nhã, lãng mạn, yêu văn chương, thơ phú.
Khu đền chính gồm ba tòa điện, là Thượng điện, Trung điện và Hạ điện. Công trình này mang kiến trúc đền chùa thời nhà Nguyễn. Hiện tại, đền tọa lạc trong khuôn viên rộng khoảng một ha.(ảnh Vnexpres)
Bên cạnh các nghi lễ, lễ hội còn có các trò chơi dân gian như: đua thuyền, kéo co, đánh cờ người, thả đèn hoa đăng…; trưng bày sản phẩm các làng nghề truyền thống; các hoạt động thể thao.
Lễ hội đền Ông Hoàng Mười bảo lưu những phong tục tín ngưỡng và nghi lễ truyền thống; tái hiện lại sự tích, thân thế, công trạng của các nhân vật lịch sử như Quan Hoàng Mười hay Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí, Nguyễn Duy Lạc, giúp người dân hiểu về lịch sử, truyền thống quê hương qua các hoạt động và phong tục được thể hiện trong lễ hội. Việc lịch sử hóa, địa phương hóa Ông Hoàng Mười thành các nhân vật lịch sử như: Lý Nhật Quang, Lê Khôi, Nguyễn Xí hay Nguyễn Duy Lạc cho thấy sự linh hoạt trong việc thể hiện truyền thống tôn vinh những người có công với quê hương đất nước của cư dân xứ Nghệ, nhắc nhở người đời sau về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Nghi lễ hầu đồng bảo lưu, nuôi dưỡng hình thức nghệ thuật hát văn, giáo dục thế hệ trẻ về công lao của các anh hùng dân tộc. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười đóng vai trò quan trọng trong đời sống sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân nơi đây. Tham gia lễ hội, các trò chơi tập thể là dịp người dân gặp gỡ, giao lưu, thắt chặt tình đoàn kết cộng đồng, chung tay xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Lễ hội đền Ông Hoàng Mười còn có vai trò lớn trong đời sống kinh tế của cộng đồng dân cư nơi đây, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội nâng cao đời sống vật chất.
Với giá trị tiêu biểu, Lễ hội Đền ông Hoàng Mười được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2970/QĐ-BVHTTDL ngày 27/8/2019.
Dương Anh (Theo Hồ sơ tư liệu, Cục Di sản văn hoá